CHÙA DÂU- TỔ CHÙA CỦA VIỆT NAM
Là
một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, chùa Dâu không chỉ mang trong mình nhiều giá trị lịch
sử, kiến trúc, điêu khắc mà đó còn là nơi khởi nguồn của đạo Phât. Chùa Dâu đã
và đang thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến hành hương, tìm hiểu.
Goi là chùa Dâu
vì dân cư ở đây ngoài trồng lúa nước còn có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt vải.Chùa
còn có những tên khác là chùa cả, Cổ
châu tự, Thiền định tự, Diên ứng tự.Chùa Dâu thuộc làng Khương Tự- huyện Siêu Loai- phủ Thuận
An- xứ Kinh Bắc, nay thuộc làng Khương Tự- xã Thanh Khương- huyện Thuận Thành-
tỉnh Bắc Ninh. Chùa Dâu, thành Luy Lâu vố là trị sở của quận Giao Châu thời thuộc Hán.
Theo ghi chép
trong sử sách và bia đá tại chùa, chùa Dâu được xây dựng từ thế kỷ II( 187-
226) dưới thời Sỹ Nhiếp làm thái thú. Trải qua trường kỳ lịch sử, chùa đã được
xây dựng, tu bổ, tôn tạo nhiều lần. Đợt tu bổ lớn nhất là vào đời vua Trần Anh
Tông(1293-1315), do trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đảm nhận, chùa Dâu trở thành “
chùa trăm gian- tháp chín tầng- cầu chín nhịp”.Đến thời Lê Trung Hưng và thời
Nguyễn chùa Dâu tiếp tục được trùng tu và mở rộng ,có quy mô lớn. Tấm bia có
niên đại Vĩnh Hựu thứ 4(1738) ghi chép về việc hưng công sáng tạo chùa Dâu. Năm
2011, chùa Dâu lại được trùng tu, tôn tạo
theo nguyên tắc giữ gìn tối đa “ nguyên gốc”.
Đây là di tích gắn với huyền tích Phật mẫu Man Nương .Man
Nương,người làng Mãn Xá bên cạnh.,đến chùa học đạo. Một hôm nàng ngủ quên, nhà
sư vô tình bước qua, mà từ đó mang thai. Đến ngày 8-4(âm lịch) hạ sinh một nữ
nhi tốt lành. Nàng đem con trả lại cho sư. Nhà sư mang đứa bé đến cây dung thụ
gõ đọc kệ, cây dung thụ bỗng nứt toác ra ôm đứa trẻ vào lòng. Sau đó mưa bão đánh đổ cây dung thụ,
cây trôi theo dòng sông Dâu về thành Luy Lâu, được Man Nương vớt lên. Thái thú Sỹ Nhiếp nằm mộng phải tạc tượng thờ từ cây dung thụ nên cho
người tạc thành 4 bức tượng lần lượt đặt
tên là: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện , thờ ở các
chùa quanh vùng. Chùa Dâu thờ Đại thánh phật Pháp Vân.
Chùa
Dâu và các chùa Tứ pháp vùng Dâu đều được xây dựng theo kiểu “ nội công ngoại
quốc” nhằm vừa để thờ thần , vừa để thờ phật.. Chùa tọa lạc trên một khu đất rộng,
bằng phẳng, cảnh quan đẹp, hướng Tây, sát đường 282. Chùa gồm các công trình:
Tam quan, Tiền thất( Bái vọng đường), Tháp Hòa phong, Tiền đường, Thiêu
hương,hai dãy hành lang, Thượng điện, Hậu
đường, Nhà Tổ, nhà khách, vườn tháp.
( chèn các Hình ảnh về chùa Dâu: ảnh Tiền
Đường, Hai dãy hành lang, Thiêu hương- có chú thích rõ ràng)
Nổi bật giữa sân
chùa là Tháp Hòa Phong. Tháp được xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa,nung thủ
công tới già. Thời gian đã lấy đi 6 tầng trên của tháp, nay chỉ cò 3 tầng cao
khoảng 17 m nhưng vẫn rất uy nghi, vững trãi. Cửa phía tây của Tháp có con cừu đá dài 1.33m,
cao 0,8m mang đậm dấu ấn văn hóa phương Bắc.Truyện kể rằng Sỹ
Nhiếp có 2 con cừu. Khi ông chết, hai con cừu lang thang khắp nơi, một
con tìm về được lăng Sỹ Nhiếp nằm phủ phục, 1 con lạc đến chùa Dâu, nằm ở đó
nghe kinh.. Trước cửa phía tây còn có tấm
bia “Hòa Phong Tháp bi ký”, “ Cổ Châu Diên Ứng Tự” ( Bia đá tháp Hòa Phong ,
chùa Diên Ứng Cổ Châu) và bia “hưng công
sáng tạo”( ghi công những người đóng góp). Trong lòng tháp có 4 bệ gạch thờ 4 vị Tứ Trấn, bằng gỗ phủ sơn, cao
1,6m mỗi người một vẻ, tướng võ oai
nghiêm.. Phía trên cao trong lòng tháp treo môt khánh đồng đúc vào năm Minh Mạng
18 (1837) và chuông đồng đúc vào triều Cảnh Thịnh (1793).
Hai dãy hành
lang nối hai bên Tiền thất chạy thẳng xuống Hậu Đường , nơi đây thờ 18 vị La
Hán.
Thượng Điện được
thiết kế 1 gian, hai chái, 4 vì tạo thành 4 mái đao cong. Tại trung tâm Thượng
Điện là ban thờ Đại thánh Pháp Vân. Ngài tọa trên tòa sen đặt trong khám thờ lớn
chạm rồng và sơn son thiếp bạc. Tượng cao 1.57m- mang dáng vẻ của một người phụ
nữ đôn hậu, khỏe mạnh, có thực trên đời
nhưng lại là một đức phật ở thế thuyết pháp, niệm chú. Toàn thân sơn màu mận
chín là biểu tượng của một bầu trời no đủ mây mưa, sấm chớp; phía dưới tượng
Pháp Vân, hai bên có tượng bà Trắng, bà Đỏ - những người công đức nhiều tiền của
vào chùa Dâu làm hương hỏa.. Trước mặt tượng Pháp Vân có tượng Thạch Cương hay
Thạch Quang- là một hòn đá cuội màu nâu nhạt, cao 0,19m, đường kính đầu 0,11m.
Hiện nay tượng Thạch Quang được đặt trong một hộp sơn son thiếp vàng.
Hậu đường gồm 9
gian là nơi thờ các lớp tượng về sau đối với tượng Pháp Vân như các ban: Đức
Ông, Quan Âm, Thánh Hiền, Địa Tạng Vương, Hậu Phật
Sát bên trái Hậu
Đường là nhà Tổ, vừa thờ Tổ vừa thờ Mẫu. Nằm sát nhà Tổ, song song với dãy hành
lang là nhà Khách. Phía sau là vườn chùa, có 8 tháp gạch , nơi đặt di cốt của
các sư tăng trụ trì tại chùa.
Xưa kia, hội Dâu
được tổ chức trong 4 ngày, chính hội là
ngày mùng 8 tháng tư âm lịch. Hội Dâu đông đúc và vui lắm, thu hút đông đảo khách thập phương về lễ phật cầu may. Trong lễ
hội, ngoài phần thi lễ quen thuộc về tín ngưỡng tôn giáo như: rước kiệu Pháp
Vân, tượng bà Trắng, bà Đỏ…còn có phần hội là những trò vui như múa hát và các
cuộc thi, Thi múa trống có tính chất khai hội, thi múa gậy để dẹp đường, nhất
là thi cướp nước mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa- đó cũng là tín ngưỡng
của người Việt cổ.
Cuộc thi cướp nước
được tiến hành vào trưa ngày 8-4- tức ngày chính hội. Để chuẩn bị cho cuộc thi
người ta đã kê sẵn 2 cái bàn bằng gỗ lim vững chắc, rồi dùng vải màn quây xung quanh Hai chiếc bàn kê ở giữa 2 bên cửa nghách Cổng
Tam quan, cách dãy nhà tiền tế khoảng 200 m. Tượng Pháp Vân, Pháp Vũ đặt trên 2
chiếc kệ, mỗi kệ do 8 chàng trai khỏe mạnh, vóc dáng cân đối, cao bằng nhau rước
kiệu với tốc độ nhanh nhất có thể trong
tiếng hò reo của những người xem hội.Nếu như bà Đậu- Tượng Pháp Vũ về đích trước
thì năm đó mưa thuận, gió hòa, cây cỏ tươi tốt. Còn nếu bà Tướng – tức Pháp Lôi
về đích trước thì năm đó hạn hán mất mùa, đồng ruộng lắm sâu, nhiều đỉa.Đó cũng
là lý do để người ta háo hức tham gia, chờ đợi.Tiếp đó 2 tượng Pháp Vân và Pháp
Lôi được rước vào chùa để chuẩn bị lễ bái Tổ.
Ngày nay, qua những
thăng trầm của lịch sử, Sông Dâu, cầu chín nhịp, tháp chín tầng( nay chỉ còn 3
tầng), chợ âm dương đã mất. Hội Dâu cũng không còn như xưa. Điều đó rất cần sự
chung sức của nhiều ban nghành để phục dựng lại.
Tuy vậy, trong
tiềm thức của người Kinh Bắc nói chung và người dân Thuận thành nói riêng thì
ngày 8-4 âm lịch vẫn là ngày để “trở về”
Chùa Dâu là
trung tâm phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam, thể hiện sự kết hợp giữa tín ngưỡng
dân gian thuần Việt và Phật Giáo..Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc có quy mô
đò sộ, tinh xảo, mang đậm dấu ấn của các triều Trần, Lê, Nguyễn. Trong chùa còn
bảo lưu được một kho tàng khổng lồ di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý
giá như chùa, tháp, bia đá, tượng thờ, sắc phong, đồ thờ tự, tín ngưỡng, lễ hội…Chùa
đã được công nhận là “Di sản Văn hóa quốc gia đặc biệt” năm 2013.
Chùa Dâu xứng
đáng là danh lam cổ tự. Là niềm tự hào của người dân Thuận Thành nói riêng và nhân dân tỉnh Bắc
Ninh nói chung. Chùa Dâu hứa hẹn sẽ trở thành trọng điểm du lich văn hóa tâm
linh trong tương lai không xa.